Ngày Xưa ở làng Thung (nay là làng Dung, xã Liêm Sơn) có bà mẹ phúc đức, sinh được một cậu con trai. Đứa trẻ sinh ra không có mắt, chỉ có hai hố trũng, đỏ lòm. Nó lại không cử động gì, chỉ thoi thóp thở. Đã năm tháng trời mà khối thịt ấy để đâu vẫn nằm đó.
Người ta cho là ma tà, nên khuyên người mẹ chôn đi. Đêm ấy, người bà con đã mang mai với một cái chiếu, mấy cái lạt đến, định sáng sớm sẽ mang cái thây kỳ dị đó đi chôn. Không ngờ quá nửa đêm, bà mẹ đang khóc thì thấy trong nhà sáng rực lên: một bà mụ người to bằng cót vựa thắm khăn bao vàng, đem đến một cái gối và một cái lọ nhỏ. Bà mở gói lấy hai con mắt lắp vào cho đứa trẻ, lấy cái lọ đổ vào miệng đứa trẻ những giọt nước thần óng ánh. Sáng ra, người ta thấy đứa trẻ hồng hào, khỏe mạnh, hai mắt long lanh. Lớn lên, đứa trẻ trở thành một đồ vật vô cùng tài giỏi. Đồ vật đó sức khỏe như cá Kình, nên người ta gọi là Đô Kình. Người ta kể: có một lần vỡ đê to, nước dâng nhanh chóng. Đô Kình vào vùng núi đá chặt từng vách đá ở sườn núi quẳng xuống ầm ầm. Chẳng mấy chốc, một con đê đá cứng cao rộng được đắp lên ngay giữa đồng, cứu được nhiều người chạy lụt. Lại nữa, công việc của nhà trời như thế nào, Đô Kình đều biết trước. Hạn, úng, hỏa tai, thủy quái ... chàng đều báo trước để mọi người chống nạn. Mãi sau người ta mới biết rằng Đô Kình có đôi mắt nhìn suốt sáu cõi lại có sức đi mây về gió, ra vào nhà trời như đi lại ở cõi trần.
Thuở ấy, mạng người sinh tử như cái bóng nước. Trẻ con sống được vài ba năm rồi tự nhiên lăn ra chết. Còn người lớn thì chết ngang chết ngửa, không biết số phận ra sao. May rủi thật là khôn lường. Đô Kình biết rõ chuyện này và rất căm tức, nói với mọi người là quyết lấy cho được con dao của thần Bắc Đẩu, vị thần dùng dao sát phạt bừa bãi dân lành, làm việc không công minh.
Hàng ngày ở dưới trần nhìn lên nhà Trời, Đô Kình thấy thần Bắc Đẩu ngạo nghễ cầm dao đi lại, không lúc nào con dao rời khỏi tay. Sau chàng để ý biết rằng chỉ khi nào đi ngủ, ôm vợ trong tay thì thần mới để dao đầu giường. Nhưng nhà Trời kín cổng cao tường đã đành, còn nhà ở của thần cũng mấy lần cửa đóng vào làm sao được?
Thế rồi một hôm thấy vợ thần Bắc Đẩu tắm, Đô Kình nghĩ ngay ra một kế. Chàng vội treo lên cây muỗm cao nhất, rồi nhảy vọt lên trời. Chàng đạp mây gió ào ào, khi tới nơi, chàng bế thốc vợ thần Bắc Đẩu ném tòm xuống ao. Thần Bắc Đẩu vội vã bỏ dao, lao xuống cứu vợ. Nhanh như cắt, Đô Kình vồ lấy con dao và phóng ra phía cổng nhà Trời, Bắc Đẩu cứu được vợ lên thì mất dao. Thần biết mắc mưu của chàng đô vật trần thế, vội vã đuổi theo. Chẳng mấy chốc, thần đã nhìn rõ người đô vật cầm dao phóng như bay xuống cõi trần. Thần hóa phép ra một dãy núi đá lớn trước mặt. Đô Kình lao đầu vào làm một quãng núi đá vỡ tan và qua được. Thần lại hóa phép ra trăm ngàn con rắn quấn lấy chân Đô Kình. Đô Kình vung dao chém nát nhừ đàn rắn. Bí thế, Thần hóa ra màn lửa cháy đùn đùn trước mặt Đô Kình. Đô Kình phóng vọt qua như gió, lửa không bén kịp. Lúc ấy thần đã tiến sát Đô Kình, chỉ còn cách liều mạng túm lấy chàng đô vật, giật lại con dao. Nhưng mỗi lần thần giơ tay ra thì Đô Kình lại vung dao chém tới tấp. Chàng chém mạnh đến nỗi lửa phát ra nhoáng nhoáng như chớp, gió rít lên reo réo. Vừa đặt chân xuống đất, chàng bê ngay một vại nước đái hắt ngược trở lên. Thần Bắc Đẩu hú vía, vội lùi lại, vì sợ dây bẩn, ô uế không về được nhà Trời. Thế là thần thất thểu trở về tay không.
Từ đấy, người dưới trần sống no đời đủ kiếp hàng trăm năm. Nhưng nhà Trời vẫn hậm hực đòi lại dao, nên hàng năm vào tháng bảy, tháng tám lại đổ mưa lớn, nước ngập mênh mông rồi thì gió to bão lớn để mong giết bằng được Đô Kình. Nhưng Đô Kình vẫn sống, con dao thần được cất giữ cẩn thận.
Cho đến một ngày kia, ở vùng núi Lường, Đặng có một cái thung lớn, có con rắn sống lâu năm đã thành yêu, bắt người ăn thịt, làm cỏ xác cả một vùng. Nghe tin, Đô Kình lập tức mang dao thần đến để trị nó. Chàng đi thẳng vào cái thung kia và gọi con yêu ra. Gọi mãi chẳng thấy gì. Chàng ngồi xuống một cây gỗ mục chống dao đợi. Không ngờ đang ngồi chàng bị hất ngửa. Cây gỗ mục chính là con rắn, nó đã hất chàng ngã, ngoạm chặt lấy con dao thần rồi ầm ầm lao chạy. Đô Kình biết thất thế, nhưng cố đuổi theo con rắn. Chàng đuổi nó từ đỉnh núi này đến đỉnh núi khác mà không được. Thật không may trong khi con rắn chạy trốn lên những triền núi, thì ánh sáng của con dao chiếu hắt lên, khiến cho nhà Trời nhìn thấy. Thần Bắc Đẩu cùng Thiên Lôi cầm búa tức tốc xuống trần.
Đô Kình đang đuổi theo con rắn thì một tiếng sét long trời nổ trúng đầu. Chàng cháy thành than đen. Thần Bắc Đẩu hóa phép lùa đến hàng vạn con ngoé tươi béo, biếu rắn để chuộc lại con dao rồi mới trở về trời.
Lại nói: khi Đô Kình bị sét đánh, mùi khét nồng nặc ở đâu cũng ngửi tới. Mùi thịt người cháy xông lên tận nhà Tròi. Ngọc Hoàng hỏi ra mới biết tình đầu, thì thương Đô Kình lắm. Nhưng sự đã rồi, Ngọc Hoàng bèn gọi Thần Bắc Đẩu tới mà quở trách và chỉ bảo cho thần biết không được sát hại dân lành, phải để cho người trần sống trăm tuổi. Nhưng Thần Bắc Đẩu sợ người dân gian sống trăm tuổi, sẽ có lắm người mưu kế như Đô Kình, nên cứ lén lút bớt tuổi họ đi, chỉ cho sống sáu bảy mươi tuổi mà thôi, họa hoằn mới cho vài người sống trăm tuổi để trình Ngọc Hoàng.
Comments
Post a Comment